CHỦ NHÂN LÊ NGUYỄN GIA TRANG: PHONG VŨ
( Kính tưởng nhớ ba, nhà thơ Việt Trang và chú Phong Vũ. Con kính chúc quý cô chú trong nhóm Trà Sơn thân tâm thường lạc)
Cùng tha phương, xa Huế từ lâu
Phiêu lãng sông hồ mới gặp nhau
Em giữa đô thành quên cát bụi
Tôi trên phố núi lạnh hao hao
…..
Lá rụng thềm hiên chiều vắng lặng
Núi rừng Dalat tím vào đêm
Vọng qua sương gió tình Lê Nguyễn
Gởi tiếng thơ về với trái tim.
(Việt Trang 1991)
Anh Lê Xuân Lợi là nhà thơ Phong Vũ. Anh từ Bình Định lên Dalat lập nghiệp bước đầu phải nhờ nhiều vào thân mẫu của mình.
Anh xây lò làm gạch, mở xưởng cưa dưới đèo Prenn. Ở vùng đất tranh tối tranh sáng, muốn công việc làm ăn yên ổn và tánh mạng bảo toàn, anh phải lén mua gạo, thuốc men cho những người mặc bộ đồ bà ba đen sống trong những hang đá trong núi Voi gần đó.
Anh thạo việc kinh doanh nên sau một thời gian trở nên giàu có. Anh dốc hết tiền của mình và mượn thêm của mẹ một ngàn cây vàng để xây một khách sạn tuyệt đẹp nằm ngay đầu đèo Prenn, mang tên Lê Nguyễn Gia Trang. Khách sạn như một dinh thự, phía trước hướng ra con đường về Sai gòn, mặt sau nhìn xuống thung lũng. Buổi sáng sương mù cảnh đẹp như chốn bồng lai.
Tuy nhiên con người dẫu có tài giỏi cũng không qua số mệnh. Tòa nhà vừa xây xong chưa kịp trang trí bên trong thì cuộc chiến năm 1975 xảy đến. Vật liệu trang trí nội thất, vật dụng trang bị cho khách sạn, anh chị cho xe tải chở về cất giữ trong một kho hàng ở Cam Ranh, dọc đường bị đạn pháo kích cháy trụi tiêu tan.
Khi Cộng Sản tiếp thu Dalat, anh không bị tịch thu nhà vì không chạy di tản, một phần anh không dính vào chế độ cũ và có công với Cách Mạng. Sau một thời gian, ông Ba Dư, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân thành phố Dalat mời anh lên và yêu cầu :
- Ông là nhà đại tư bản. Ông bóc lột công nhân nên tài sản lớn như thế. Vì anh có công tiếp tế cho Cách Mạng nên Đảng và Nhà nước cân nhắc giữa công và tội bởi vậy khoan hồng không truy xét. Bây giờ nhà nước cần căn nhà của anh để làm việc
Anh Phong Vũ đáp :
-Nếu cần thì Đảng và Nhà nước cứ trưng dụng. Chúng tôi không có ý kiến gì.
Ông Ba Dư thẳng thừng :
- Đảng không tơ hào một cây kim, sợi chỉ nào của nhân dân nên không lấy không ngôi nhà của ông, mà sẽ mua lại với giá 5 cây vàng.
Từ một đại gia có căn nhà trên một ngàn cây vàng, anh gần như trắng tay. Anh về cuối đèo Prenn nơi xưởng cưa cũ dựng một ngôi nhà gỗ thấp lè tè, mỗi khi bước vào phải cúi người để khỏi bị đụng đầu. Căn nhà trở thành nơi lý tưởng cho nhóm Trà Sơn (*) ngâm vịnh và bàn chuyện mưu sinh.
Một hôm, tôi bảo với anh :
-Tôi có hai mảnh đất trong Quảng Thừa, hai anh em mình vào đó trồng trọt.
Chúng tôi đạp xe đạp vào tận Saint Jean, gần Tân Bình, tìm lại mảnh đất trồng légume ngày nào. Cả hai lặng người khi thấy đó một khu rừng với chằng chịt cây cối và nhìn lại mình với chiếc cuốc trên xe. Biêt sức mình không kham nổi, hai chúng quay xe về.
Ngày qua ngày, dù có phải kiếm tiền nuôi con nhưng anh sáng tác thơ ngẫu hứng. Thời gian sau, gia đình anh được cháu Cam Ly bảo lãnh qua Canada.
Tuy cách nhau nửa vòng trái đất nhưng tình cảm giữa anh, tôi và nhóm Trà Sơn luôn vẫn đậm đà. Mỗi lần anh về, chúng tôi hội tụ lại khi ở nhà tôi, lúc nhà Duy Việt, Lan Hinh… cùng nhau ngâm vịnh với tiếng đàn, tiếng sáo, giọng ngâm Hồng Vân
Vẫn người bạn chìa cho ta điếu thuốc
Ngồi bên nhau vụn vặt chuyện đời thường
Phố côi cút mà ngựa xe xuôi ngược
Trôi về đâu như mây khói lang thang
(Việt Trang)
Phong Vũ tuổi con ngựa, thua tôi ba tuổi, sức khỏe không còn như xưa. Mùa đông ở xứ người khắc nghiệt, anh chị trốn cái lạnh về ở Nha Trang. Năm nay, anh bị mổ, phải về Việt Nam tĩnh dưỡng thời gian dài. Thật thương anh vô cùng.
Lòng ngưỡng mộ của tôi đối với được bày tỏ trong lời đề tựa tập thơ” Tiếp Bước Phiêu Hồng”
Thơ Phong Vũ còn phảng phất một triết lý nhân bản, vị tha mà không ưu thời mẫn thế, vương víu một nét bâng khuâng cố hữu mà không bi lụy, bao giờ cũng nhẹ nhàng như gió thoảng, than thản tợ mây bay.
Tất cả đều chảy xuôi dòng Chân Thiện Mỹ
Trong cuộc sống đời thường, anh thỉnh thoảng tiêu dao đây đó. Mỗi chuyến đi có một bài thơ để lại, đúng hơn, mỗi bài thơ là dấu ấn một chuyến nhàn du.
Những năm tháng còn ở quê hương, dấu chân anh từng in dọc chiều dài đất nước, qua những địa danh thân quen, dừng chân trên những dòng sông, từ cội nguồn chảy ngang về biển cả.
Cỏ cây, hoa bướm, trăng sao, thôn trang, thị thành, cảnh vật vô ngôn, tất cả tạo nguồn cảm hứng cho anh cầm bút thành thơ.
Từ Montréal, thành phố định cư, anh quay quắt từng đêm nhớ Huế, đan xen kỷ niệm buồn vui dâu bể. Đứng trên bờ sông Saint Laurent, thơ bồi hồi nhớ về cố lý xa xăm. Ở Sydney, nhân ngày vui của cháu, thơ không quên ngợi ca Đalạt, nồng nàng tình nghĩa, nhìn phượng tím kinh thành Úc Châu mà thương cảm màu tím nhớ nhung của cây phượng tím già đứng lẻ loi bên chợ Dalat, đông người qua lại.
Đang còn tiếp bước phiêu bồng, anh Phong Vũ – mẫu người “Đê đầu tư cố hương”(**) không như Giả Đào:
Tinh Châu đất khách mười năm
Hàm Dương hôm sớm khăng khăng mong về
Tàng kiền qua bến đê mê
Tinh Châu ngoảnh lại thành quê hương nhà (*)
Trái tim anh luôn luôn mang nặng hình ảnh phố núi Đalạt thơ mộng, cố đô Huế ngàn năm trầm mặc và cả non nước Việt Nam kỳ vỹ, yêu quý để mơ một ngày đẹp nhất: Đoàn viên
(24 . 10 . 2008)
Việt Trang & Phạm Mai Hương
(*) Hội thi hữu Trà Sơn khởi điểm có các vị: Phong Vũ Lê Xuân Lợi, Việt Trang Phạm Gia Triếp, Trần Vấn Lệ, Tâm Minh Ngô Tằng Giao, Cam Lĩnh Nguyễn Thái Em, nhà sư Viên Ngộ Lê Trung Trang, nhà sư Thích Minh An, Xuân Đài Nguyễn Thị Nghĩa, Lan Hinh Nguyễn Ngọc Dĩnh, Duy Việt Huỳnh Chùm... họ trao nhau những bài thơ chép tay trên giấy vở học trò hay cầu kỳ hơn trên những trang pellure giấy mỏng còn sót lại của thời xa xưa. Những bài thơ của họ không đăng báo trong nước mà được bạn bè gởi qua hải ngoại đang vào những đặc san của trường nữ trung học Bùi Thị Xuân - Trần Hưng Đạo, hoặc những tờ báo tiếng Việt bên đó. Những bài được đăng, bạn hữu lại cắt gởi về làm quà lại cho tác giả
(**) Độ tang điền
Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Qui tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cánh độ Tang Điền thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương
(***) Ghi chú: giờ ba (Việt Trang) và chú (Phong Vũ) đều ở chốn hư vô. Con (Phạm Mai Hương) xin ghi lại câu thơ của cô Chúc Mai để tưởng nhớ hai người
Tiễn Biệt Anh
Tôi đưa anh đến cuối đường này
Trời sao lắm gió lại mưa bay
Bây giờ tháng mấy rồi anh nhỉ
Mà đã lập đông anh có hay
==
Tay nương gậy trúc tiễn đưa nhau
Đọc nửa câu kinh lòng quặn đau
Sững sờ lê bước chân huyền hoặc
Kìa ai sương khói sầu ơi sầu
==
Tôi chỉ đưa anh đến thế thôi
Lá vàng rụng mãi dưới chân đồi
Hình như trời khóc và tôi khóc
Nay tiễn anh rồi, ai tiễn tôi
Chúc Mai